Sự nghiệp quân sự Bành_Đức_Hoài

Đóng góp của Bành Đức Hoài cho Đảng Cộng sản Trung Quốc được trân trọng ghi nhận và Mao Trạch Đông gọi ông là Bành Đại tướng quân.

Bành Đức Hoài và Lâm Bưu được coi là hai tướng lĩnh xuất sắc hơn cả trong hàng ngũ Hồng quân. Họ không hề tỏ ra xung khắc nhau trong cuộc Vạn lý trường chinh. Cả hai đều ủng hộ sự lãnh đạo cao nhất của Mao Trạch Đông tại hội nghị Tuân Nghĩa tháng 1 năm 1934.

Trong thời gian Chiến tranh kháng Nhật, Bành Đức Hoài là phó tổng tư lệnh quân đội của Đảng Cộng sản (Chu Đức là tổng tư lệnh). Ông thể hiện tài thao lược xuất sắc trong các hoạt động sau hậu phương quân Nhật Bản ở Bắc Trung Quốc. Sau khi quân Nhật đầu hàng quân Đồng minh năm 1945, cùng với Hạ Long (người sau này cũng trở thành Nguyên soái), ông chỉ huy Hồng quân bao vây Bắc Kinh, chia cắt quân đội Trung Hoa Dân quốc ở đây với phần còn lại. Sau đó, trong chiến tranh Quốc – Cộng (1945-1949), ông là tư lệnh Tập đoàn quân số một giải phóng các tỉnh Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh HảiThiểm Tây.

Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) nổ ra, Lâm Bưu cáo ốm không muốn đảm nhận việc chỉ huy quân chí nguyện, thì Bành Đức Hoài đứng ra làm tư lệnh Chí nguyện quân Trung Quốc. Ông còn là Bộ trưởng Quốc phòng, ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, được phong hàm Nguyên soái Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc năm 1955.

Ban đầu chiến tranh Triều Tiên, quân Trung Quốc do Bành Đức Hoài chỉ huy đánh thắng liên quân Liên Hiệp Quốc nhiều trận.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên, các sai lầm mang tính chiến lược trong cuộc chiến này làm 3 tập đoàn quân Trung Quốc bị bắt giữ đưa đến uy tín của ông bị giảm sút trong Đảng cộng sản Trung Quốc. Ông hay có xung khắc với Nguyên soái Lâm Bưu và thường giành ưu thế.